Chợ cổ Hồng Giang có “Thất Xung, Bát Hào, Cửu Đạo”, quy mô rất lớn, còn nhiều điều đáng xem nữa. Mọi người có thể ngắm nhìn một phần nào đó để hiểu tổng thể, từ đó có cái nhìn khái quát về đời sống tiểu thương và tình hình xã hội ở Trung Quốc trong các thời kỳ Minh, Thanh và Dân Quốc, cũng như về lịch sử hình thành những hạt giống chủ nghĩa tư bản. Du khách đến Hồng Giang cũng có thể thấy đây là một thành phố núi xinh đẹp với núi Sơn Vân – ngọn núi nổi tiếng nhất vùng Tây Hương, cùng chùa Đại Hưng – ngôi chùa cổ của Bắc Tống. Nếu bạn muốn cảm nhận sâu sắc hơn về điều kỳ diệu của chợ cổ Hồng Giang, về vẻ đẹp của núi nước Hồng Giang, cùng nền văn hóa tôn giáo huyền bí của nơi đây, hy vọng chuyến du lịch này sẽ để lại cho bạn những kỷ niệm đẹp.
Chợ cổ Hồng Giang có nguồn gốc từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, hình thành vào thời Đường với các chợ cỏ, phát triển mạnh mẽ vào cuối thời Minh và đầu thời Thanh. Nhờ vào sự thuận lợi của giao thông đường thủy, nơi đây nổi tiếng khắp thế giới với việc thương mại dầu Hồng, gỗ, thuốc bắc, và là một trong những trung tâm thương mại lớn, cổ kính và đầy đủ nhất ở Tây Nam, cũng là nút giao về vật phẩm và trung tâm tài chính lớn ở phía Tây Nam. Lưu thông tiền tệ ở đây chỉ đứng sau tỉnh lỵ Trường Sa, trong thời kỳ đấy, lượng xuất khẩu dầu Hồng từng vượt qua sản phẩm xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc – lụa, nơi này nổi tiếng với các mỹ danh như “Tiểu Nanjing, Ngọc quý Tây Hương, 7 tỉnh thông đường”.
Theo thời gian, những điều phồn vinh đã qua đi, chợ cổ của chúng ta vẫn giữ được nguyên vẹn sự chân thực của hơn 380 công trình kiến trúc cổ từ thời Minh, Thanh và Dân Quốc như thương quán, ngân hàng, nhà thổ, quán rượu, khách sạn, xưởng và chùa, từ báo chí, quán trọ, sân khấu, đến học đường, dường như như một bức tranh sống động về toàn cảnh xã hội trong thời kỳ Minh, Thanh và Dân Quốc, như một bảo tàng sống động bao gồm đầy đủ các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, tôn giáo và văn hóa. Quy mô lớn, khí thế hùng vĩ, nội dung sâu sắc, đã được lưu giữ tốt đến mức hiếm có trên toàn quốc tới mức các chuyên gia kiến trúc cổ nổi tiếng của Trung Quốc, phó Chủ tịch ủy ban đánh giá chuyên gia các thành phố lịch sử văn hóa, ông La Triết Văn, gọi nơi đây là “Chợ cổ số một của Trung Quốc” và “Hóa thạch sống của thời kỳ khởi đầu chủ nghĩa tư bản ở Trung Quốc”. Các chuyên gia kinh tế du lịch nổi tiếng của Trung Quốc và Giám đốc Viện nghiên cứu du lịch Trung Quốc, ông Vệ Tiểu An, đã gọi đây là “Sách giáo khoa về kinh tế thị trường của Trung Quốc”. Đoàn chuyên gia diễn đàn du lịch Trung Quốc cũng phát biểu rằng: “Chưa đến Bắc Kinh thì chưa biết được vẻ đẹp của kiến trúc cổ, chưa đến Tây An thì chưa hiểu được tinh hoa văn hóa lịch sử Trung Hoa, chưa đến Hồng Giang thì không thể sâu sắc cảm nhận được sự rực rỡ và vinh quang của nền văn minh thương mại cổ đại Trung Quốc.” Bây giờ hãy cùng nhau vào chợ cổ để khám phá quá khứ, cảm nhận những chuyện huyền thoại trong thương mại cổ đại của Trung Quốc nhé.
Thương quán Thịnh Nghiệp và Dầu Thịnh Phát
Khi bước vào chợ cổ, điều đầu tiên bạn sẽ thấy là Thương quán Thịnh Nghiệp. Thương quán này chính là nơi tập trung việc tiêu thụ gỗ từ khắp nơi trong nước đến các khu vực ven biển. Đây là một trong ba ngành trụ cột của Hồng Giang. Hồng Giang là một thành phố điển hình di dân, cư dân nơi đây đều là những người khai thác vàng, làm ăn từ khắp nơi. Các ngành kinh doanh ở đây cũng khác nhau, như người Quý Châu chủ yếu kinh doanh thuốc phiện, trong khi người Giang Tây chủ yếu kinh doanh dầu Hồng. Tại Hồng Giang, người đến từ Hồ Bắc chủ yếu tham gia vào ngành gỗ. Thương quán Thịnh Nghiệp không chỉ đơn thuần là một thương quán, mà còn là một hội quán được xây dựng bởi người dân Hàng Châu, Hồ Bắc, có nhiệm vụ phối hợp kinh doanh gỗ cho thương nhân Hồ Bắc tại Hồng Giang.
Ngay bên cạnh Thương quán Thịnh Nghiệp là Dầu Thịnh Phát. Xưởng sản xuất chính là nơi sản xuất dầu Hồng, sản phẩm đặc sản của Hồng Giang. Dầu Hồng là một loại dầu hạt thông tinh chế sản xuất tại Hồng Giang, với quy trình đặc biệt, màu sắc vàng sáng, có chức năng chống ẩm, chống mục nát, chống sâu bọ, là loại sơn bảo quản tốt cho nhà ở, thuyền bè và dụng cụ nông nghiệp, được xuất khẩu sang Đông Nam Á, là ngành trụ cột của nền kinh tế Hồng Giang. Đồng thời, nơi đây cũng là một cơ sở kinh doanh dưới sự điều hành của hội quán Chân Viên. Hội quán Chân Viên được xây dựng liên kết bởi 7 huyện Xương Châu, Viên Châu, Chân Khê, Học Phố, Chi Giang, Kiện Dương, Mã Dương. Ngành công nghiệp dầu Hồng và gỗ do vị trí địa lý đặc biệt của Hồng Giang giúp cả hai ngành này phát triển không ngừng suốt hàng trăm năm và cũng thúc đẩy sự phồn vinh của nền kinh tế thương mại Hồng Giang. Vào thời điểm đỉnh cao, trên dòng sông Viên và sông Vu, những con thuyền chở dầu và gỗ đã tấp nập qua lại. Người Hồng Giang từng ví von: “Thấy thuyền mà không thấy sông, thấy gỗ mà không thấy biển” để miêu tả sự thịnh vượng thời bấy giờ.
Phúc Toàn Đường
Hiện tại chúng ta đang nhìn thấy “Phúc Toàn Đường” – một hiệu thuốc lớn của chợ cổ Hồng Giang. Phúc Toàn Đường được thành lập vào năm Quang Tự thứ 20 (1894), là một hiệu thuốc truyền thống do một thương nhân Quý Châu mở ra, chuyên về buôn bán thuốc và bào chế thuốc. Có lẽ mọi người sẽ cảm thấy lạ, tại sao lại xây dựng một hiệu thuốc lớn như vậy tại cửa chợ cổ? Có điều gì bí ẩn không? Hãy xem, ông Trần đã ra đón tiếp mọi người, mời ông Trần giới thiệu cho chúng ta nghe nhé.
Ông Trần: “Các vị khách quý, đến từ xa. Cửa hàng này có thể nói là lưng cao, vinh hạnh vô cùng. Tôi họ Trần, hiện là người quản lý thứ mười một của Phúc Toàn Đường. Cửa hàng nhỏ này là một thương hiệu có từ trăm năm ở Hồng Giang, chuyên buôn bán thuốc bắc từ Bắc vào Nam, khám bệnh và chữa bệnh, cũng có tiếng tăm trong giới thuốc tây tại Tây Nam. Vào thời kì hưng thịnh, doanh thu hàng năm chỉ từ một việc bán thuốc bắc lên đến một trăm ngàn lượng bạc. Trên thế giới, mọi người đều vì lợi nhuận mà hoạt động, và vào thời kỳ cuối Minh, nhằm quyên góp quân lương, triều đình đã mở rộng lệnh cấm thuốc phiện. Hồng Giang nhờ vào giao thông đường thủy thuận lợi, dần dần trở thành thị trường giao dịch thuốc phiện chính của khu vực nội địa. Lợi nhuận từ việc kinh doanh thuốc phiện rất lớn, các thương nhân đều đổ xô vào, Phúc Toàn Đường cũng theo dòng chảy mà gia nhập vào Hiệp hội Thương nhân Đặc biệt Hồng Giang, bắt đầu kinh doanh thuốc phiện, dần dần thuốc phiện trở thành sản phẩm chính của Phúc Toàn Đường, mỗi năm doanh thu từ thuốc phiện là lên tới hai mươi triệu bạc và một thời điểm trở thành một trong mười đại gia giàu có của Hồng Giang. Thế nhưng trong lòng ai cũng biết, thuốc phiện là chất độc hại cho đất nước và nhân dân, kinh doanh thuốc phiện thực sự là trái với lời dạy của tổ tiên về việc chữa bệnh cứu người. Đau đớn và thanh thản, giờ Phúc Toàn Đường nhiêu lần mở lại, nhất định sẽ xem sóc lời dạy của tổ tiên, giúp đỡ nhân dân, lương tâm và danh dự của ‘Phúc Toàn’ không thể phụ lòng.”
Các vị quý khách, xin mời vào trong. Đây là một trong những tủ trưng bày thuốc phiện thời bấy giờ, trên đây trưng bày các loại thuốc phiện khác nhau của các nơi như Vân, Quý, Triết. Có thể các vị sẽ thắc mắc, sao hiệu thuốc lại có thể kinh doanh thuốc phiện? Thực tế, đây chính là thủ đoạn lừa dối của triều đình lúc bấy giờ. Để tránh sự bàn tán của dân chúng, triều đình đã gọi chung tất cả thuốc phiện do nhập khẩu là thuốc phiện và được xếp vào loại thuốc, đánh thuế theo dạng thuốc bắc, trong khi chủ cửa hàng lúc đó đã nắm được kẽ hở này, một cách chính thức đã bắt đầu kinh doanh thuốc phiện. Thời đó, trên toàn quốc có 3 tuyến đường vận chuyển thuốc phiện chính, một là tuyến đường thuốc phiện phía Tây Bắc, vận chuyển nhiều vào khu vực Bắc Bộ và Bắc Kinh; thứ hai là vận chuyển thuốc phiện từ Tây Nam theo dòng sông Trường Giang xuống, tập trung tại Vũ Hán, Thượng Hải và phân phối tới các khu vực trung và đông Trung Quốc; thứ ba là tuyến đường thuốc phiện từ Vân Quý, vận chuyển từ Quý Dương về Chiềng, sau đó theo đường thủy đến Hồng Giang, qua Hồng Giang ở tỉnh Hồ Nam để vào khu vực trung Quốc. Tuyến đường này được gọi là tuyến đường Quý Hồng, và được chia thành mười một nhánh, theo ghi chép thì lượng thuốc phiện từ Quý Châu bán tại Hồng Giang đã chiếm tới 3/4 tổng lượng thuốc phiện tiêu thụ của toàn tỉnh Quý Châu.
Thương quán Dương Tam Phượng
Theo cuộc điều tra dân số vào thời kỳ Đồng Trị nhà Thanh, toàn thành phố có 38.000 dân, trong đó có 18.000 người tham gia kinh doanh, có thể nói rằng lúc bấy giờ ở chợ không ai không làm thương, không nơi nào không có thương nhân. Tòa nhà cổ mà chúng ta thấy bây giờ chính là “Thương quán Dương Tam Phượng”. Mọi người hãy nhìn lên tường của nó. Trên tường có một tảng đá xanh khắc chữ “Dương Tam Phượng Đường Tường Biên”, tảng đá này được gọi là “Tường Biên Đánh Dấu”. Đó là sự phân chia rõ ràng của thương nhân về tài sản của chính mình, tương đương với việc phân chia lãnh thổ. Cái dấu này có ở mỗi tòa nhà cổ trong chợ cổ của chúng ta, không chỉ hình ảnh chứng minh sự tồn tại lịch sử của chợ cổ Hồng Giang, mà còn là biểu tượng cho sự giàu có của thương nhân thời đó.
Thương quán Dương Tam Phượng được thành lập vào năm đầu tiên triều đại Minh Hồng Vũ (1368), chủ yếu là một viên quan quân, người Giang Tây, sau bị Tống Văn Đế điều động, ông theo quân dân di cư về quê hương và đi ngang qua Hồng Giang bị cuốn hút bởi sự phồn vinh của nơi này, vì vậy định cư tại Hồng Giang. Những trải nghiệm độc đáo của ông cũng đã được ghi lại trong thương quán của ông. Đầu tiên, hãy nhìn cửa chính của gia đình Dương Tam Phượng. Tất cả cửa của các gia đình trong chợ cổ đều được bọc bằng kim loại và đóng đinh sắt, nhằm bảo vệ chống cháy nổ và trộm cắp. Đồng thời, hình dạng của các hoa văn được đóng đinh ra ngoài tùy thuộc vào thân phận, địa vị và sở thích của chủ nhân, khéo léo diễn đạt tâm tư khác nhau của thương nhân.
Mọi người hãy xem bức tranh này, dưới chân có vẽ một cái bình, phía trên có ba cây giáo, hình ảnh không mất đi chất quân nhân của ông. Vậy bức tranh này muốn diễn tả điều gì về chủ nhân Dương? Bức tranh này có ý nghĩa “Bình thăng cấp ba”, giống như nhảy lên ba bậc. Dù chủ nhân đã đến Hồng Giang làm thương nhưng vẫn không quên thân phận và vinh quang của mình, dù đã lùi về “giang hồ”, vẫn hy vọng con cháu của mình sau này sẽ trở thành quan chức.
Mọi người đều biết rằng, vào thời cổ đại Trung Quốc, xã hội được chia thành bốn loại nghề nghiệp từ cao xuống thấp là “Sĩ, Nông, Công, Thương”, và thương nhân được xếp cuối cùng trong bảng phân loại “tứ dân”, thậm chí còn thấp hơn cả những người làm nghề thủ công. Từ một người có vị trí cao, trở thành một thương nhân ở “tứ dân” thật sự là một sự thụt lùi lớn. Hình ảnh “Bình thăng cấp ba” mà chủ nhân để lại cũng một cách khéo léo thể hiện suy nghĩ truyền thống về việc coi nhẹ thương nhân thời điểm mới đến Hồng Giang. Nhưng sau nhiều năm lăn lộn trong xã hội thương nhân đề cao vị thế này, tư tưởng của ông lại có đôi phần thay đổi. Sự thay đổi này chúng ta có thể tìm thấy tại các dải mái ở bên hông nhà ông. Mọi người hãy xem, trên dải sàn có bốn chữ cổ viết bằng kiểu chữ cổ, có nhiều bạn bè đến đây nghiên cứu và kiểm chứng, mọi người tranh cãi chưa ngã ngũ, đã trở thành một bí ẩn lớn của chợ cổ. Cuối cùng, sau khi được các chuyên gia chuyên môn chứng thực, xác định bốn ký tự cổ này là “Vô Thính Pháp Thiền”. Ý nghĩa của nó là một người nếu không có lòng lo lắng, không lo lắng về danh vọng, của cải, sự xa hoa sẽ có một tâm hồn thanh tịnh để lắng nghe và cảm nhận cuộc sống và thế giới, từ đó phát triển một trạng thái thiền. Nếu hiểu sâu hơn, nó một cách khéo léo đã truyền đạt đến mọi người rằng, bất kể là làm quan hay làm thương, chỉ cần có thể giữ một tấm lòng thanh thản, vô lo vô nghĩ, tự nhiên mọi việc được điều hòa, vô luận làm gì cũng sẽ đạt được thành công và sự hài lòng, điều này cũng khéo léo diễn tả sự thật trong thiền – “Trúc xanh ngát, đầy là pháp thân. Hoa vàng rực rỡ, chẳng qua là trí huệ”. Ngoài ra, từ đây còn cho thấy rằng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thương mại, vị thế của các thương nhân cũng ngày càng cao, và sự phân chia nghề nghiệp truyền thống Trung Quốc đã và đang chuyển dịch từ “Sĩ, Nông, Công, Thương” sang “Sĩ, Thương, Nông, Công”, nghề thương đã trở thành lựa chọn chỉ sau nghề quan.
Hội quán Tô Châu
Đối diện chúng ta là Hội quán Tô Châu. Hội quán Tô Châu được xây dựng vào năm 17 thời Minh (1644), do các thương nhân từ Tô Châu đóng góp xây dựng, là một hội quán thương mại. Hội quán là một loại tổ chức xã hội đặc biệt mà những người cùng quê ở giai đoạn Minh, Thanh lập ra khi đi làm ở nơi xa. Lúc đầu, hội quán chủ yếu là nơi tụ tập, giải trí của những người cùng quê, nhằm giải tỏa nỗi nhớ quê hương. Sau giữa thế kỷ 16, nền kinh tế hàng hóa ở Trung Quốc phát triển nhanh chóng, xuất hiện các hạt giống chủ nghĩa tư bản, sự cạnh tranh trong thương mại ngày càng gia tăng, chức năng của hội quán cũng không ngừng được mở rộng, dần dần phát triển thành các cơ sở thương mại phục vụ đàm phán, giao tiếp thông tin, đoàn kết đồng hương và bảo vệ lợi ích của thương nhân. Hội quán có một vị trí và vai trò rất đặc biệt trong sự phát triển thương mại Hồng Giang. Trong lịch sử, Hồng Giang không có chính phủ hành chính, các thương nhân hình thành hội quán không chỉ để lãnh đạo giới thương nhân mà còn đảm nhận chức năng của một cơ quan hành chính, theo mô hình hoạt động thương mại để quản lý Hồng Giang, tạo ra một môi trường kinh doanh rất ổn định và linh hoạt cho các thương nhân. Điều này cũng thu hút các thương nhân từ khắp nơi đổ về, trong thời kỳ thịnh vượng nhất, Hồng Giang đã có 18 tỉnh, 24 châu, và hơn 80 huyện thành lập hội quán đồng hương và hội quán thương nghiệp tại đây. Có thể nói, thương nhân tụ tập về Hồng Giang, ở lại lâu dài, buôn bán qua lại, ai cũng có tài nghệ riêng. Đây cũng là một đặc điểm lớn trong thương mại của chợ cổ Hồng Giang. Thời đó có một câu nói như sau, nói lên được vị trí của Hồng Giang như một trung tâm thương mại lớn ở Tây Nam: “Thương nhân của Trung Hoa tụ hội, vượt sông Hoàng Hà, vượt sông Trường Giang, đi qua Đông Bắc, Tây Bắc, không đến Hồng Giang thì chưa tính là thương nhân.”
Hiện nay, chợ cổ Hồng Giang vẫn giữ nguyên những hội quán được các thương nhân từ khắp nơi xây dựng, như hội quán Tứ Xuyên, hội quán Tân An, hội quán Bảo Kinh, hội quán Sơn Hãn, hội quán Trường Sa, tổng cộng hơn 48 hội quán. Những hội quán này không chỉ đến từ khắp nơi mà còn mang đến những nền văn hóa khác nhau, cùng với các buổi lễ tế, hội hè, biểu diễn văn hóa dân gian, diễn xuất kịch địa phương, và các hoạt động tế lễ phong phú, làm cho chợ cổ Hồng Giang trở thành một “vườn nguyện vọng của văn minh Trung Hoa”. Văn hóa hội quán đã trở thành một thắng cảnh lớn của chợ cổ Hồng Giang. Nếu bạn có hứng thú, hãy tìm kiếm cẩn thận trong chợ cổ, chắc chắn bạn sẽ tìm thấy hội quán của quê hương mình.
Hội quán Tô Châu nằm gần lối vào chợ cổ, cánh cửa hình chóp mở rộng, với nghĩa là “phát” chào đón khách từ mọi nơi vào, thể hiện sắc thái thương mại rõ ràng. Thời Khang Hy, hội quán Tô Châu đã chuyển địa điểm mới, hội quán này cho thuê cho các hội quán khác và thương nhân. Vào thời Dân Quốc, tỷ phú đầu tiên của Hồng Giang, Trần Nhân Tín đã mua lại tòa nhà này, kinh doanh vải, dầu Hồng và các mặt hàng khác, trên tường bên phải cánh cửa lớn ông đã ghi “Cửa hàng hàng hóa” để tiếp thị dịch vụ.
Tường Chống Cháy
Các chuyên gia đã mô tả như sau về kiến trúc của chợ cổ Hồng Giang, “Nếu như Phượng Hoàng là tiểu thư nhà gia thế, thì thành phố Khiêm là cô gái từ nhỏ, vậy thì chợ cổ Hồng Giang mang vẻ bề thế của nhà địa chủ”. Tại sao lại nói như vậy, hãy nhìn lại bức tường của hội quán Tô Châu. Nhìn lại, bạn dễ dàng nhận thấy toàn bộ kiến trúc của hội quán Tô Châu cao lớn, giống như một lâu đài, hình dạng của toàn bộ công trình rất ngạo mạn và mạnh mẽ. Bức tường cao chúng ta gọi là “Tường Chống Cháy”, nó có ba chức năng: thứ nhất là chống cháy, thứ hai là chống trộm, và còn một điều nữa thì sao? Tại đây tôi để lại một sự nghi ngờ nhỏ, trong các điểm tham quan dưới đây tôi sẽ giải thích cho các bạn biết. Hơn nữa, chúng tôi có thể thấy rằng bức tường chống cháy này không xây thẳng mà có hình cung. Tại sao lại xây thành hình cong? Thời bấy giờ toàn bộ chợ cổ được xây dựng theo thế núi, bức tường cong được thiết kế theo hướng đi của ngọn núi. Hồng Giang đất ít người đông, giá nhà đất đắt đỏ, vì vậy để tận dụng tối đa đất đai, hầu hết các công trình đều được xây dựng theo thế núi, vì vậy các chuyên gia cho rằng kiến trúc cổ của chợ cổ Hồng Giang đã cải cách hoàn toàn mô hình truyền thống coi trọng sự đối xứng, mà phần lớn thể hiện sự biến đổi không quy tắc, là kiểu kiến trúc tự do hiếm thấy trong thời cổ đại, điều này cũng từ một khía cạnh thể hiện tư duy cởi mở của thương nhân Hồng Giang. Ngoài ra, từ góc độ thẩm mỹ, bức tường cong càng thể hiện vẻ đẹp hơn, nhìn từ xa giống như những tấm vải lụa Tô Châu với vẻ đẹp cuốn hút.
Thương quán Dương Nghĩa Trai
Giờ đây chúng ta đã đến Thương quán Dương Nghĩa Trai. Được xây dựng vào năm thứ 13 triều đại Thanh Đồng Trị (1874), Dương Nghĩa Trai là người đến từ tỉnh Thiểm Tây, mọi người hãy xem, khẩu hiệu của nó là “Quân Tây Thế Đệ”, tại chợ cổ, bất cứ nơi nào ghi chữ “Quân Tây Thế Đệ”, “Thanh Bạch Truyền Gia” đều thuộc về gia đình họ Dương. Theo “Sử Ký”, việc này nhằm tưởng nhớ một quan viên thanh liêm tên là Dương Chấn thời nhà Hán. Dương Chấn là một viên quan liêm khiết, không tham lam. Ông luôn lấy “Liêm khiết” làm phương châm sống của mình và nghiêm khắc yêu cầu bản thân không nhận hối lộ, điều này không chỉ là phẩm chất quý giá trong thời cổ đại mà cũng là đức tính vô cùng được people tôn trọng trong xã hội hiện đại.
Dương Nghĩa Trai nổi bật nhất ở cánh cửa nghiêng của nó, tại sao cửa lại mở nghiêng, điều này chính là một yếu tố trong phong thủy. Các cụ cho rằng, phong thủy tức là “Giấu gió, tiếp nhận nước”, tránh vận gió xấu, nhận nước tài. Các thương nhân tin rằng cửa chính đối diện với sảnh chính sẽ khiến tài lộc bay đi, vì vậy cánh cửa nghiêng hoặc mở sang một bên có tác dụng thúc đẩy tài lộc. Nó khéo léo thể hiện ước vọng giàu có, thu hút tài chính của các thương nhân.
Chúng ta còn có thể thấy trên cánh cửa có danh ngôn “Nghĩa Phương Khắc Thủ, Kỷ Tài Trình Tinh”, đây là cặp đối từ ghép khéo léo tích hợp tên của chủ tiệm, đồng thời cũng chứng tỏ rằng ông Dương làm ăn dựa vào sự trung thực, tuân thủ quy định thương mại, kiểm tra gỗ chính xác không sai sót. Dương Nghĩa Trai là một trong những thương quán cổ điển của Hồng Giang trên trăm năm, thành công đứng vững trong thương trường hàng trăm năm qua nhờ vào nguyên tắc kinh doanh trung thực và danh tiếng.
Thương quán Hứa Phục Long
Hiện tại chúng ta đến Thương quán Hứa Phục Long. Thương quán Hứa Phục Long được thành lập vào năm thứ 12 triều đại Thanh Đồng Trị (1873), ông chủ là hai anh em Hứa Tòa Bạch và Hứa Đạt Chân, cả hai từ nhỏ đã học hành giỏi giang, sau đó từ văn vào thương, đã làm ăn phát đạt trong thương trường Hồng Giang, trở thành những doanh nhân có kiến thức nổi tiếng ở đây. Anh em họ Hứa có hai câu khẩu hiệu kinh doanh, một câu là “Kinh doanh phải có ‘tròn’ ‘phẳng’”, bởi “phẳng” là bản chất của con người, cách ứng xử trong xã hội; “tròn” là con đường kinh doanh và kỹ thuật kiếm tiền. Chỉ có “phẳng” mà không có “tròn” thì không thể làm ăn tốt; có “tròn” mà không có “phẳng” thì không thể làm ăn lâu dài. Tóm lại, trong kinh doanh cần phải có cả “tròn” và “phẳng” mới có thể đạt được có ích và lợi lâu dài. Câu thứ hai là “Cửa hàng chết, người sống”, nói về nhân tài trong kinh doanh là điều cần thiết nhất, phải lấy trí tuệ làm thắng lợi.
Trong chợ cổ có những công trình như thế này thường được gọi là “Hầm Nền”, hầm là chỉ tầng hầm, có đặc điểm là mùa đông ấm mùa hè mát. Hầm nền Hồng Giang là sự kết hợp giữa kiến trúc kiểu Hồ Thái và dân cư Giang Nam, thể hiện rõ sự khí phách và thực dụng độc đáo của thương nhân Hồng Giang. Nó kết hợp việc giao dịch, cư trú, kho hàng lại thành một thể. Cửa chính mở ra đường, thuận lợi cho kinh doanh; tầng một chủ yếu phục vụ việc trao đổi thương mại, vừa rộng rãi vừa dễ tiếp cận; tầng hai phục vụ chủ yếu cho việc chở hàng, do đó trải qua thời gian lâu dài mà vẫn bền vững nhờ vào nguyên liệu chắc chắn, được xây dựng rất dày đặc. Toàn bộ công trình rất có khí hậu thương mại, điển hình cho sự hợp nhất giữa thương và cư trú. Các kiểu nhà truyền thống của Trung Quốc đều bắt nguồn từ nhà ở truyền thống, rất ít mang tính chất thương mại, nhưng những Hầm Nền cũng phát xuất từ kiểu nhà tổ chức truyền thống của Trung Quốc, nhưng để phù hợp với sự phát triển thương mại, một số phòng được cải tạo thành kho hàng, quầy hàng, văn phòng, điều này cho thấy rõ phong cách kiến trúc đặc trưng của thời kỳ chuyển mình xã hội: chức năng mới, công dụng mới, mà không có hình thức kiến trúc mới để thích ứng. Kiểu kiến trúc này ở Hồng Giang rất hiếm, có đặc điểm thuộc giai đoạn khởi đầu của chủ nghĩa tư bản.
Vậy trong cái khí chất thương mại dày đặc này, phong cách của ông chủ Hứa là ở đâu? Mọi người hãy chú ý đến cột trụ phía sau tôi, cột tròn được gắn một tảng đá vuông vào giữa, không giống như những cột trụ khác. Cột trụ đặc biệt này chứa đựng những kinh nghiệm thương chiến của ông chủ Hứa trong nhiều năm lăn lộn trong thương trường, nó nói với chúng ta: Để có được thành công và rực rỡ trong sự nghiệp, cần phải tuân theo điều “Phẳng và Tròn”, cả hai yếu tố này phải linh hoạt và chính trực. “Phẳng” là bản chất của con người, là cách xử thế; “tròn” là con đường kinh doanh và kỹ thuật làm giàu. Chỉ “phẳng” mà không “tròn” thì không thể làm ăn tốt; chỉ “tròn” mà không “phẳng” thì không thể làm ăn lâu dài. Tóm lại, trong kinh doanh cần phải có cả “tròn” và “phẳng” mới có thể có lộc tài và lợi ích lâu dài. Ngoài ra, từ góc độ hình thức, cột “Ngoài tròn, bên trong vuông” này giống như đồng tiền cổ ở Trung Quốc, và cũng mang ý nghĩa “Quý nhân yêu tiền, lấy từ con đường đúng đắn”. Một cột nhỏ lại chứa đựng nhiều điều thú vị, thật xứng đáng với danh hiệu doanh nhân thời đại Hồng Giang.
Khách sạn Trường Phát
Đối diện là khách sạn Trường Phát, là một khách sạn ngành nghề do ông chủ Dương điều hành, chuyên để tiếp đón các thương nhân trong ngành gỗ. Từ đây, chúng ta có thể thấy rõ cái đầu óc tinh ranh của thương nhân, xây dựng khách sạn ngành nghề này không chỉ thuận tiện cho việc giao dịch thương mại mà còn “bốc” từng đồng tiền trong tay họ.
Hẻm Tống Gia
Đường hẻm dài này được gọi là Hẻm Tống Gia, là phố ngành nghề chính của một thương nhân có họ Tống quê ở Phúc Kiến, tập trung vào việc kinh doanh đồ gốm sứ, phía trước còn bảo tồn tốt cửa hàng “Hợp Hòa Đồ Gốm”. Hẻm Tống Gia là mô hình điển hình cho hệ thống kinh tế dựa vào lợi ích gia đình tại Hồng Giang. Xu hướng chung của nền kinh tế thương mại Trung Quốc là hợp tác gia tộc chuyển dần sang tổ chức kinh tế dựa theo địa lý, điều mà hội quán đồng hương là điển hình cho sự phát triển mạnh mẽ. Có thể nói rằng, chợ cổ chúng ta là minh chứng cho liệu trình tiến hóa và phát triển của hai hệ thống kinh tế này.
Như tôi đã nói trước, bức tường chống cháy trong chợ cổ Hồng Giang có ba chức năng: chống cháy, chống trộm, và chức năng thứ ba ở đây có thể thấy rõ ràng. “Từ xưa, thương nhân luôn coi trọng lợi nhuận hơn là chia tay”, vì để kiếm được tiền, các thương nhân thường phải sống xa quê nhà, vậy còn những người vợ tuyệt đẹp của họ ở nhà như thế nào? Sinh ra không có chồng, chỉ có thể “nuôi” ở nhà, để họ không phải ra ngoài. Vì vậy, các thương nhân đã xây dựng những bức tường vững chắc này, mang tư tưởng “chống cây mai vàng ra khỏi bức tường”. Những người vợ mỏi mệt, khi cô đơn chỉ có thể thấy cả thế giới bên ngoài qua những cái cửa hẹp trên gác, để ngóng chồng trở về.
Tòa nhà nhỏ thời Đại Thanh
Tòa nhà này là một tòa nhà nhỏ được xây dựng vào thời Đại Thanh. Thương nhân Hồng Giang rất cởi mở, trong quá trình chuyển tiếp từ hệ thống kinh tế gia tộc sang hệ thống dựa theo địa lý, các thương nhân nơi đây, cả về hình thức kinh doanh lẫn tư duy kinh doanh, đều đi ra khỏi con phố dài hẹp, họ đã theo đuổi những thương hiệu nổi tiếng, cao vọng bước lên thương trường, dẫn dắt thương mại và thiết lập mạng lưới tiếp thị, từ tòa nhà nhỏ này xây dựng theo thời kỳ Đại Thanh, chúng ta có thể thấy sự can đảm của thương nhân Hồng Giang khi tiếp nhận văn minh phương Tây.
Chi cục kiểm soát muối
Năm 1687, trong năm thứ 26 triều đại Khang Hy, nhà văn Vương Khánh tới thăm Hồng Giang, trong “Nhật ký hành trình ở tỉnh Vân” đã mô tả Hồng Giang lúc đó là “Thương nhân tấp nập, hàng hóa dày đặc, căn nhà san sát, cánh buồm tấp nập, khói bụi dày đặc”. Hồng Giang là một cửa khẩu quan trọng của Tây Nam Trung Quốc, nơi tập trung muối Hòa và muối Sơn Dị. Ngành muối đã được chính phủ quản lý từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, việc buôn bán muối lén lút mang lại lợi nhuận khổng lồ, và luôn bị cấm. Để đàn áp tình trạng buôn lén muối, chính quyền nhà Thanh đã thành lập “Chi cục kiểm soát muối” để kiểm soát muối của tỉnh Sơn Tây và thu thuế muối.
Tòa nhà Cao Gia
Tất cả mọi người hiện đang thấy là một tòa hầm lớn của một trong tám hiệu dầu lớn ở Hồng Giang, Cao Tự Thuận, được thành lập năm 1827. Cao Tự Thuận là một hiệu dầu sớm của Hồng Giang và cũng là hiệu dầu đầu tiên tồn tại lâu năm cho đến trước giải phóng. Thương hiệu dầu Hồng Giang đã nổi danh ở Đông Nam Á trong hơn trăm năm. Hơn nữa, trong quá trình kinh doanh hơn trăm năm, hiệu Cao Gia đã sản sinh ra nhiều triệu phú tự tạo cho riêng mình, chẳng hạn như tỷ phú lớn nhất Hồng Giang lúc bấy giờ, Lưu Kỳ Sơn từng là quản gia của gia đình Cao.
Tòa nhà Cao Gia gồm có ba tầng, một tầng hầm cho thông đường để dễ dàng thoát hiểm trong trường hợp khẩn cấp, đã được phong bích không sử dụng, tầng mà chúng ta đang thấy là tầng hai, nơi cho gia chủ sinh sống và giao dịch, bên trên có tầng ba là nơi cho quản gia và người hầu sinh sống. Ngoài ra, sân bên vực ba là học viện của gia đình Cao, chỉ phục vụ cho con cháu của gia đình Cao học tập.
Ông chủ của hiệu Cao Tự Thuận, Hứa Ngọc Huy rất tài ba trong kinh doanh. Một lần, một nhóm thương nhân đến Hồng Giang để nhập hàng. Khi các hiệu lớn giới thiệu sản phẩm của mình, nhiều thương nhân háo hức, nhiệt tình giới thiệu sản phẩm dầu của mình như thế nào là tốt, nhưng ông Cao rất khiêm tốn, ông thường giới thiệu rằng dầu của nhà hàng này có màu sắc tốt, và công nghệ tinh chế của nhà hàng kia tốt, còn không có nhận xét gì về dầu của mình, sau buổi hội sau, mọi người phát hiện rằng số lượng thương nhân muốn mua dầu của ông nhiều nhất. Hóa ra, các thương nhân thấy rằng ông Cao hiểu rõ tính chất sản xuất dầu của tất cả các hiệu lớn, biết cách tuyên truyền tích cực cho dầu Hồng Giang, không chỉ chú ý tới một lợi nhuận, mà còn có tầm nhìn và sự chân thực, nên họ tin rằng dầu của ông nhất định sẽ chất lượng tốt, vì vậy họ đã thương lượng với ông để mua.
Đường vải lụa
Hiện giờ chúng ta sẽ đi tham quan một phố lụa trên phố tơ lụa, những gì mọi người thấy ở đây là một ngôi nhà gỗ là cửa hàng tơ. Chợ cổ Hồng Giang nằm ở trên sườn núi nơi con sông Viên và sông Vu giao nhau, xây dựng theo thế núi, đường phố chằng chịt, quanh co, cao thấp, thời Minh, Thanh đã hình thành nên “Thất Xung, Bát Hào, Cửu Đạo”. Những con đường, hẻm, bãi thường là con phố của một ngành nghề hoặc một gia đình, như phố dầu, phố gỗ, phố nhà thổ v.v…sự hình thành của các ngành nghề này không chỉ thể hiện sự thịnh vượng của thương mại Hồng Giang, mà còn có giá trị lịch sử rất lớn trong việc nghiên cứu sự phát triển kinh tế nội địa của Trung Quốc.
Bây giờ, con đường mà chúng ta đang đi chính là con phố tơ lụa thuở nào. Vải là một trong những hàng hóa mua bán lớn nhất trên thị trường Hồng Giang. Vào cuối thời Thanh, phần lớn quần áo được sản xuất tại Hồng Giang đều được bán sang các huyện phía Đông Quý Châu. Các nhà sản xuất dầu, thương gia gỗ, đặc sản từ Thượng Hải, Vũ Hán đã chở bông, vải, lụa về Hồng Giang để buôn bán lại, chuyển đi các nơi như Quảng Tây, Quý Châu, và Vân Nam. Vào thời kỳ pi-top đỉnh điểm, mỗi năm có tới 110.000 cuộn vải được xuất bán, doanh thu trên 7 triệu lượng bạc. Cửa hàng vải mà mọi người thấy ở đây, được xây dựng vào thời Khang Hy, là do một ông chủ họ Diễm mở ra. Đặc biệt của cửa hàng vải này là không chỉ hướng tới thị trường thông thường mà còn đón nhận các đơn đặt hàng cho quân phục từ các tướng lĩnh quân đội vốn làm quanh lĩnh vực này.
Đường Đồng Phát
Đồng Phát được thành lập vào thời Khang Hy, ông chủ là hiệu trưởng của cửa hàng Dy Dì, ban đầu là một thương nhân họ Diễm, vừa thương lượng lụa và vải, cho đến thời chiến tranh Trung-Nhật, hai anh em nhà họ Tống ở tỉnh Song Phong đã cõng hai cuộn lụa đến Hồng Giang tránh nạn và buôn bán, sau đó vào năm 1940 đã dùng số tiền lớn mua lại ngôi nhà này và đổi tên thành “Đồng Phát”, chủ yếu kinh doanh gỗ và chuyển lụa cũng như vải về Hồng Giang bán cho các tỉnh lân cận.
Nhà máy quân phục Tôn Quốc Phan
Cả Hán Quân Xã Tự do quý báu cũng có quyền uy với giai trò rất nổi bật trong việc trở thành nhà lãnh đạo những cuộc chiến nổi dậy để chấm dứt triều đại quý tộc, ông Tôn Quốc Phan (họ Tôn) là một nhà lãnh đạo nổi tiếng thông đạt. Năm 1854, Tôn Quốc Phan đã kêu gọi các quân đội tự giữ vững quy tắc, thiết lập một lực lượng các quân đoàn. Vào thời điểm này, cũng đã có một đơn vị thủy quân ở Hồng Giang gọi là Giang Thong Thủy Quân. Tòa nhà này là một nhà máy sản xuất quân phục dành riêng cho Giang Thong Thủy Quân.
Dầu Tôn Quốc
Gần nhà máy quân phục Tôn Quốc Phan là cửa hàng nổi tiếng “Dầu Tôn Quốc”. Chủ cửa hàng là một người đàn ông ở An Huy. Người ta nói ông đã đến Hồng Giang cùng mẹ để thoát khỏi cuộc chiến tranh với quân đội thái bình. Khi đến Hồng Giang, gia đình họ sống rất khổ sở, ba người con trai của ông gia nhập các con phố học việc, sau đó tích lũy một số vốn, mở một cửa hàng bán chỉ. Tuy nhiên, do kinh doanh khéo léo, cửa hàng của họ đã mở rộng, 70 cửa hàng được thiết lập, gần như nắm giữ hầu hết ngành nghề ở Hồng Giang, và đã tạo ra được nhãn hiệu “Dầu Tôn Quốc” được xây dựng từ một gia tộc truyền thống.
Ngân hàng Hồ Nam
Bây giờ chúng ta đang ở Ngân hàng Hồ Nam, Hồng Giang không chỉ là một trung tâm tích trữ hàng hóa quan trọng của Hạ thể Tây Nam mà còn là một thị trấn tài chính lớn nhất của Hạ thể Tây Nam. Năm 1908, Cục Tiền tệ tỉnh Hồ Nam đã thiết lập chi nhánh Hồng Giang, có số vốn 40.000 lượng bạc, chủ yếu phục vụ ngân gửi và chuyển tiền. Năm 1912, Cục Tiền tệ tỉnh Hồ Nam cải tổ lại thành Ngân hàng Hồ Nam, lãnh đạo chi nhánh Hồng Giang cũng được chuyển đổi thành Ngân hàng Hồ Nam, sau đó rất nhiều tổ chức tài chính đã thành lập tại Hồng Giang, ngành ngân hàng được phát triển và Ngân hàng Hồng Giang đã trở thành trung tâm tài chính lớn ở Tây Nam, lưu thông tiền tệ ở đây đứng thứ hai chỉ sau tỉnh lỵ Trường Sa.
Tại tường của Ngân hàng Hồ Nam, khi ngước nhìn lên, chúng ta có thể thấy có một con dơi đang dang ra hai cánh, hai mắt lấp lánh, có vẻ như đang theo dõi những người qua lại xung quanh. Vậy con dơi này có ý nghĩa gì ở đây không? Ai cũng biết dơi trong quan niệm cổ xưa của Trung Quốc tượng trưng cho sự tốt lành và may mắn. Nhưng ở đây, nó không chỉ tượng trưng cho phúc khí, mà còn có ý nghĩa bảo vệ kho vàng của ngân hàng. Chúng ta đều biết dơi là động vật hoạt động vào ban đêm, vào mỗi đêm nó đều rất cảnh giác, chỉ cần có một chút động tĩnh liền giương cánh bay lên, bảo vệ kho vàng, việc này cũng rất hợp lý. Hơn nữa, bên dưới con dơi còn có một lỗ nhỏ, nó để sử dụng như một mắt nhìn, hoặc cũng là một điểm đàm phán. Điều này tương ứng với con dơi, tạo nên một sự thú vị thú vị.
Đường Phúc Tồn Đức
Bây giờ chúng ta đang ở nhà ở của ông Phúc Tồn Đức, một bậc doanh nhân nổi tiếng tại Hồng Giang. Ông Phúc Tồn Đức là người đứng đầu Hội Chữ thập đỏ Hồng Giang, làm giám đốc “ThươngTrang Thái Bình”, cả cuộc đời đã làm được rất nhiều việc từ thiện cho thị xã Hồng Giang, nhân dân đây kính trọng ông như một trong “bốn lão nhân của Hồng Giang”. Nhà của Phúc Tồn Đức là một ngôi nhà hai tầng, được làm bằng gỗ, không gian thoáng mát trang nhã, trang trí đơn giản.
Những viên đất ở chợ cổ đều quý như vàng, vì vậy rất hiếm có cấu trúc sân vườn, mà thay vào đó là những sân trời (tục ngữ các cửa hàng). Những bức tường dày và cao, mái nhà từ bốn phía đổ dồn vào giữa, hẽm ở gần khu dồn dập, để lại một không gian nhỏ mà ánh nắng có thể chiếu vào, đó chính là sân trời, kết cấu tăm tối như thế này rất giống với ước nguyện của các nhà tiểu phú không thể lộ diện tài sản giá trị của mình ra. Sân trời Hồng Giang được chia thành sân trời khô và ẩm. Ở đây là sân trời ẩm, có hiệu quả tốt hơn trong việc thông gió và chiếu sáng, phía dưới sân trời có một cái chum đá tinh xảo, có thể chứa nước mưa, mang nghĩa “Bốn dòng nước về sáng tỏ”, “Nước béo không chảy ra ruộng người ngoài”.
Nhà của Phúc Tồn Đức không chỉ là nơi ở của ông mà còn là một quán trọ trăm năm phục vụ cho các thương nhân lưu thông. Quán trọ này được chia thành ba loại phòng, cao cấp, trung bình và bình dân, trong đó phòng cao cấp chủ yếu phục vụ cho giới thương nhân lớn, phòng trung bình là để phục vụ thương nhân bình thường, còn đặc biệt là phòng bình dân ở đây chỉ có một giường, miễn phí cho những người đến Hồng Giang để làm việc. Chính bầu không khí thương mại rộng rãi và thiện lương này đã tạo nên những huyền thoại về một “bắp xôi một chiếc ô”, đã biến Hồng Giang thành nơi các ông chủ giàu có xuất hiện.
Cái chum đá chúng ta gọi là “Đại Bình Chậu”, có thể chứa nước, phòng chống cháy, ý là “giữ gìn một vùng yên ổn”, cũng có thể mang lại hứng thú và ý chí cho những người diện. Người Hồng Giang thường khắc hình người mà họ kính yêu, thích hợp vào trong đáy chum theo sở thích của mỗi cá nhân, của hội quán hay của nhóm thương mại. Trên chum này có hình biểu trưng là hai con rồng, đây là điều mà người Hồng Giang yêu thích nhất, để hình ảnh này phác hoạ lòng hành động hưởng lợi của thương nhân, khi tài phú ỷ và cái đẹp nơi này tràn đầy các cụm từ trong các trích dẫn nổi tiếng, cho thấy quan hệ giứa sự chuyển tiếp của hiện thực và lý tưởng ngày càng gần hơn. Cuối cùng, mọi người hãy để ý, chữ “Phúc” trên đáy chum, tóm lại niềm hân hoan của dân gian.
Xây dựng để làm là nhiều nơi, đều có thể nhìn thấy từ những hình tôn nghiêm rất xinh đẹp, vì vậy làm gì cũng nên là tốt, đây lại là lời kêu gọi nhân ái, tạo ra những điều tốt đẹp cho mọi người để có được phúc khí.
Về việc quy hoạch các kiến trúc độc đáo của phố cổ, bạn phải chú ý đến thực tế, họ luôn nhấn rằng hạnh phúc và hạnh phúc cũng là nơi để giao dịch giữa những thứ rung động hoàn hảo.
Bảnh Quán
Đây là một nhà hàng giải trí do gia đình Tống quản lý, từng là nơi yêu thích của dân buôn bán ở đây. Hồng Giang trải qua nhiều nhà hàng như vậy, bên dưới có thể thấy tư duy ẩm thực đặc sắc sẽ trở thành một chỗ ngồi mà mọi người cùng ngồi ăn.
Chợ cổ Hồng Giang
Tham quan chợ cổ đã đến hồi kết, có thể tóm gọn lại bằng ba đặc điểm lớn: 1. Tính toàn vẹn: Bảo tồn nguyên vẹn hơn 380 công trình kiến trúc cổ từ thời Minh, Thanh và Dân Quốc, có rất nhiều dạng hội quán hội,… đây là lý do mà người ta đã gọi đây là “Chợ cổ số một của Trung Quốc.” 2. Tính xác thực: Những bậc thang đá cao thấp và đường đá cuội có sự tương đồng về hiện trạng lịch sử khô cằn. 3. Tính duy nhất: Quy mô thương mại to lớn, ngành nghề đa dạng có thể gọi là duy nhất trong thế giới.
Đã có câu “Đạo thương cũng là đạo người”, vị thế con người có sự phân chia về cấp bậc, các doanh nhân thì cũng có sự phân chia cao thấp. Làm một doanh nhân thì có thể gây dựng sự nghiệp, “lợi sự tử đạo” và “ Vì lợi danh ngôn theo phẩm hạnh”.
Trong thương trường, các địa chủ lớn thường không thích các người nghèo, có khi đôi lúc kẻ ở trên phải chịu áp bức từ kẻ dưới. Nếu các thương nhân có thể chuyển động dưới sức ép từ người khác thì phong thái tự nhiên vẫn không được cao đẹp. Sau bao nhiêu năm trong đất trời, việc nhân danh kinh doanh điều hành phẩm hạnh lại trở thành một điều cân bằng mà.
Tài sản
Đây là hội quán lớn nhất của Phúc Kiến và cũng là nơi thực hiện các hoạt động thương mại và tài chính. Phúc Kiến đã được xây dựng trên nền tảng phát triển quản lý lâu dài hay không? Bằng thuyết tương ứng và dĩ nhiên không thể thiếu các yếu tố đồng bộ.